Cao Bá Quát người làng Phú Thị, tỉnh Bắc
Ninh, Bắc phần. Cha là Cao Bá Chiêu, dạy học,
thuộc ḍng khoa bảng, văn học. Đời Lê đă
có ông Cao Bá Hiền làm Thượng Thư bộ Binh, kiêm
chức Tham Tán trong phủ chúa Trịnh.
Hiện nay, không ai biết rơ Cao Bá Quát sinh vào năm
nào, v́ ông can tội phản loạn, bị trảm
quyết và bị tru di tam tộc, nên những tác phẩm và
tài liệu có liên hệ đến ông không ai dám tàng trử.
Song theo tung tích và sự liên lạc giữa ông và các người
đương thời, người ta đoán Cao Bá Quát ra đời
vào khoảng 1800 đến 1803 (? đây chỉ là giả thuyết), tại làng Phú Thị,
tỉnh Bắc Ninh, Bắc phần.
Tức là ông ra đời vào thời Nguyễn sơ,
và trưởng thành dưới các đời vua Minh
Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức
(1848-1883), lúc mà chế độ quân chủ Nho giáo đă
bắt đầu có cơ sở vững vàng, Hán học
phục hưng, thi cử cực thịnh và khoa bảng là
con đường duy nhất của các sĩ tử để
tiến thân. Nhưng khốn nỗi, triều đ́nh nhà
Nguyễn lại thiên vị, có ư đè nén các sĩ tử
Bắc hà.
Về việc phân phối các trường thi hương
trong toàn quốc th́ miền Bắc vốn đất
rộng, dân đông, xưa nay nổi tiếng văn
học, sĩ tử nhiều, thế mà chỉ có 2 trường
thi hương, trong khi miền Trung đất hẹp, dân
ít, mới thiết lập mà có đến 4 trường, miền Nam khai
thác chưa xong cũng có được
2 trường như miền Bắc. Về việc
chấm bài thi: dưới đời Minh Mệnh, Thiệu
Trị, Tự Đức, đă mở 27 khoa thi hội
tại kinh đô Huế, lấy đậu hàng trăm người,
mà trong số ấy, chỉ có 4 người Bắc
phần mà thôi. Ngoài ra, sĩ tử Bắc hà thi hương
đỗ được cử nhân, vào kinh đô Huế để
thi hội, nhiều khi bài thi hay hơn mọi người
mà vẫn bị d́m xuống. Như ở khoa Mậu
Tuất đời Minh Mệnh (1838), Phạm Văn
Nghị điểm cao nhất, nhưng bị xếp
xuống dưới để cho Nguyễn Cửu Trường,
là người tỉnh Thanh Hoá quê hương nhà Nguyễn,
lên Đ́nh Nguyên, đứng trên Phạm Văn Nghị là người
miền Bắc.
T́nh trạng nầy đă
gây sự bất b́nh mănh liệt trong đám sĩ phu
Bắc hà. Đến nổi, ở khoa thi Nhâm Tuất đời
Tự Đức (1862), một thí sinh Bắc hà là Hoàng
Hữu Tài, trong bài văn sách hỏi về thời sự
trong nước, đă đánh liều đem việc
nầy ra tố cáo trong bài thi. Tuy vậy, vua Tự Đức
chấm quyển của Hoàng Hữu Tài, không những không
tỏ ư bất b́nh mà c̣n chấm cho đậu phó bảng.
Và cũng ở khoa ấy, nhà vua lấy một sĩ
tử Bắc phần đỗ Hoàng Giáp, và phê vào quyển
thi: "Như vậy để phá cái thuyết Hoàng
Hữu Tài cho rằng trẫm dị thị hai kỳ!" Nhưng cử chỉ
riêng rẻ của vua Tự Đức chưa đủ để
trấn an sĩ phu Bắc hà trong đó có cả Cao Bá
Quát.
Tư chất thông minh,
Cao Bá Quát lên 5 đă đọc được sách Tam Tự
Kinh, 14 tuổi đă làm được đủ các
thể văn, nổi tiếng hay chữ. Thế mà, năm
Minh Mệnh thứ 12 (1831), ông đậu á nguyên (thứ
nh́) kỳ thi hương ở Hà Nội, nhưng khi
quyển đưa về bộ duyệt lại th́ bị
triều đ́nh đánh xuống hạng chót, chỉ v́
lẽ bài làm hay nhưng lại sai với trường qui
(là những khuôn phép qui định về h́nh thức, các
thí sinh phải theo đúng để viết và tŕnh bày bài
làm ở trường thi). Năm
sau, cũng v́ tánh phóng túng ấy, nên khi vào kinh đô thi
Hội, bài làm khá mà Cao Bá Quát vẫn bị đánh rớt,
rồi bị đánh rớt liền vài khoa nữa. Đến năm
Thiệu Trị nguyên niên (1841), Cao Bá Quát được quan tỉnh
Bắc Ninh tiến cử, Triều đ́nh cho lĩnh
một chức quan nhỏ ở bộ Lễ.
Được cử làm sơ khảo trường
thi hương ở Thừa Thiên, ông tiếc tài nhiều
bài văn hay mà bị phạm húy (1), nên lấy muội đèn
sửa giúp. Sau bị phát giác, ông bị cách chức và phát
phối (bị đày đi xa) vào Đà Nẳng. Hai năm
sau, ông được cử theo giúp việc ở phái
bộ Đào Tri Phú sang Tân-gia-ba (Singapour) để đái
công chuộc tội. Lúc về, ông được phục
chức, rồi thăng Chủ Sự làm việc tại
Huế cho đến năm 1854.
Ông thường tự hào : 'Thiên hạ có 4 bồ
chữ, ḿnh tôi chiếm 2 bồ, anh tôi là Bá Đạt và
bạn tôi là Nguyễn Văn Siêu giữ 1 bồ, c̣n lại
1 bồ phân phát cho mọi người trong thiên hạ.' Ông
nổi tiếng thơ hay. Văn chương chữ Hán
của ông được vua Tự Đức khen: "Văn
như Siêu Quát vô tiền Hán" (Văn như Nguyễn Văn
Siêu và Cao Bá Quát th́ lấn át cả đời Tiền Hán) và
người đương thời thường gọi
là: "thần Siêu, thánh Quát". Cao Bá Quát được
giới quyền quư ở kinh đô nể nang, hâm mộ. Nhưng
ông lại thường làm cho nhiều người bất
b́nh v́ thái độ kiêu căng khiếm nhă của ông.
Chẳng hạn, ông có hai câu "tặng" Thi xă Mặc Văn
của Tùng Thiện Vương như sau:
Ngán cho cái mũi vô duyên
Câu thơ Thi Xă, con thuyền
Nghệ An!
(Ngày xưa, thuyền tỉnh Nghệ An chở
mắm đi bán khắp nơi, mắm có mùi thum thủm khó
ngửi)
Năm 1854, ông đổi
ra làm Giáo Thụ ở Quốc Oai (một phủ ở biên
giới tỉnh Sơn Tây). Ông mưu phản, giao kết
với đầu mục đảng kín là Nguyễn Kim
Thanh, nhằm phù Lê Duy Cự (hậu duệ nhà Lê) làm minh
chủ, để lật đổ Tự Đức và nhà
Nguyễn. Tháng 10 năm ấy, khởi nghĩa ở
Mỹ Lương, trên cờ hiệu ông đề hai hàng
chữ:
B́nh Dương,
Bồ Bản vô Nghiêu, Thuấn,
Mục Dă, Minh Điều hữu Vơ,Thang
(Nghĩa từng chữ: B́nh Dương, Bồ
Bản mà không có vua Nghiêu, vua Thuấn, th́ ở Mục Dă,
Minh Điều đă có Vơ Vương và Thành Thang).
Ư nói ở triều đô, Tự Đức là một
bạo quân, th́ trong dân gian có Lê Duy Cự là một minh Chúa,
theo gương Vơ Vương, Thành Thang ngày xưa đứng
lên để diệt trừ bạo quân. Hai hàng chữ trên
cờ hiệu nầy, Cao Bá Quát đă tự cho ḿnh đứng
lên "làm cách mệnh", dựa vào câu phê phán của Tư
Mă Thiên, sử gia Trung Hoa ngày xưa: "Thang, Vơ cách
mệnh, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân".
Nghĩa là cuộc cách mệnh của Thành Thang và của Vơ
Vương đă thuận theo ư trời mà thể hiện
ứng vào ḷng, vào hành động của người dân.
Nguyên ngày xưa, vua Đại-Vơ nhà Hạ (2205-1766 trước
Tây lịch) có đức lớn, được chư
hầu tôn lên làm thiên tử, đóng đô ở B́nh Dương.
Truyền 17 đời đến vua Kiệt, hoang dâm vô đạo,
say đắm nàng Muội Hỷ, lập cung thất, ao vườn
xa xỉ, thuế má nặng nề, h́nh phạt thảm
khốc, nhân dân lầm than, oán giận. Một vua chư
hầu tên là Thang hội các chư hầu khác, bố cáo
chủ trương cách mệnh diệt bạo quân để
cứu dân: « Nhà Hạ có tội, Trời sai ta đánh nó. Ta
sợ mệnh Trời, không thể không tuân ». Rồi vua
Thang đánh thắng vua Kiệt ở Minh Điều và đuổi
ra đất Nam Sào. Việc cách mệnh thành công, người
đời sau tặng cho vua mỹ hiệu là Thành, xưng
là Thành Thang. Vua Thành Thang lên ngôi thiên tử lập lên nhà Thương
(1766-1122 tr. T.L.) đóng đô ở Bồ Bản, truyền
27 đời đến vua Trụ. Vua Trụ là người
có dũng lược,mưu trí, nhưng lại mê đắm
nàng Đắc Kỷ, ăn chơi xa xỉ, sưu cao
thuế nặng, h́nh phạt độc ác, hạ sát trung
thần. Tây Bá là Phát hội 800 chư hầu, đánh
thắng vua Trụ ở Mục Dă. Trụ vương rút
lui về tự thiêu chết trong hoàng cung. Tây Bá Phát lên ngôi
thiên tử, lấy hiệu là Vơ Vương, và sáng lập
ra nhà Chu. Cuộc khởi
nghĩa của Cao Bá Quát, (người đương
thời gọi là "giặc châu chấu" v́ lúc ấy
có nạn châu chấu xuất hiện tàn phá mùa màng) bị
quân triều đ́nh dẹp tan ngay. Theo các bô lăo, th́ sau đó
Cao Bá Quát bị bắt đem về chém tại Phú Thị.
C̣n theo Đại Nam Liệt Truyện (quyển 4b, tờ
14, mục Nghịch Thần) th́ Cao Bá Quát bị tử
trận, vua sai đem đầu bêu và rao khắp các
tỉnh Bắc kỳ, rồi đem giă nhỏ ném xuống
sông.
Vấn đề được
đặt ra ở đây là:
1. Danh từ "cách mệnh" mà ngh́n năm xưa,
các sử gia Trung Hoa đă dùng, vốn nghĩa như
thế nào? Trong Hán ngữ, chữ "cách" là lột
bỏ, tước bỏ (như ở chữ "cách
chức"), chữ "mệnh" là sai khiến
(chỉ "mệnh trời" hay "thiên mệnh"),
tức là điều mà Trời đă sai khiến, ủy
nhiệm bảo phải làm. Theo Nho giáo, vua là "thiên
tử" (con của Trời) được Trời
ủy nhiệm công việc "dạy bảo dân, v́ dân hưng
các điều lợi, trừ các điều hại, không
phiền nhiễu dân, hết ḷng lo cho dân được no
ấm yên vui, mà không được kể công đức
với dân". Nếu vua không làm tṛn Thiên Mệnh đă
ủy thác, mà ăn ở vô đạo, bạo ngược,
làm cho nhân dân khổ sở, đói khát, đời sống
lầm than, th́ ḷng dân sinh ra oán ghét, thù hận. Theo Nho giáo,
"nhân thuận, thiên mệnh qui", dân muốn th́
Trời cũng chiều theo ư dân, mà cách bỏ, thu hồi
thiên mệnh đă giao phó cho. (Do đó xuất hiện danh
từ cách mệnh). Trong dân gian, có người đủ
tài đức, ḷng dân qui phục, đứng lên lật đổ
bạo quân, tức là đă hành động thuận theo ư
Trời, ứng hợp với ḷng dân. Người ấy đă
làm một cuộc cách mệnh! Tóm lại, từ "cách
mệnh", theo các sử gia Tàu, có nghĩa là "lật đổ
một bạo quân để thay thế bằng một minh
quân".
2. Ngày nay người ta dùng từ "cách
mệnh" để dịch ra tiếng Hán-Việt
từ "révolution" của Pháp ngữ, song hai từ
ấy có hoàn toàn đồng nghĩa với nhau không? Theo các
sử gia Tây phương, "révolution" có nghĩa là xoay chuyển,
là thay đổi chế độ, tức là thay đổi cơ cấu
chính trị, xă hội, kinh tế, chớ không phải
chỉ thay đổi ông vua, thay đổi kẻ cầm
chính quyền mà thôi. Sự thay đổi ấy phải
quyết liệt, nhanh chóng, và tận gốc rễ. Nếu
chỉ thay đổi nhà cầm quyền mà không thay đổi
chính sách, chế độ th́ đó chỉ là một
cuộc đảo chính, hay cải cách.
3. Vậy, danh từ "cách mệnh" có thể áp
dụng vào trường hợp Cao Bá Quát đến mức
nào?
(a) Theo định nghĩa của các
sử gia Tây phương hiện đại, ta thấy ngay
rằng cuộc "khởi nghĩa" của Cao Bá Quát
chưa phải là một "cuộc cách mệnh"
(révolution) đúng với danh vị ấy, v́ mục đích
của cuộc nổi dậy ấy chỉ nhằm
lật đổ một ông vua mà Cao Bá Quát cho là bạo quân,
để thay thế bằng một ông vua mà Cao Bá Quát cho là
minh quân. Không nhằm thay đổi cơ cấu chính
trị, xă hội, kinh tế một cách sâu xa.
(b) Nhưng có người
đă căn cứ vào định nghĩa từ "cách mệnh"
theo Nho giáo và các sử gia Trung Hoa thời xưa, mà cho
rằng Cao Bá Quát về tư tường cũng như
về hành động, quả xứng đáng là một nhà
cách mệnh. Bằng chứng, từ nhỏ, qua hai câu thơ
ứng khẩu, Cao Bá Quát đă từng nói lên cái mộng:
Ngă quân tử kiến cơ nhi tác,
Dục vi Nghiêu Thuấn quân dân.
(Nghĩa là: Tôi đây,
người quân tử, thấy thời cơ mà hoạt động,
ḷng muốn làm thế nào cho vua và dân trở thành vua và dân
ở thời Nghiêu, thời Thuấn).
Và sau đó, trong bài "Đạo phùng ngạ phu" (Giữa
đường gặp người đói),
Cao Bá Quát có mấy câu bằng chữ Hán bộc lộ ḷng
thương xót kẻ bị lỡ vận lâm vào cảnh
nghèo đói, dịch lại như sau:
Thưa rằng t́nh cảnh tôi,
Nhà nghèo làm thầy thuốc...
Ngày hai cố (a) chiếc tráp (b),
Ngày ba nhịn đói dài...
Chú giải: (a) Cầm = bán đỡ, sau có
tiền chuộc lại. (b) Tráp = hộp nhỏ bằng
gỗ, phía ngoài có sơn, có bản lề khóa lại, các nhà
Nho ngày xưa dùng để đựng giấy tờ, bút
mực (như cái cặp da ngày nay).
Ông cũng có câu phản đối cái cảnh tàn
bạo áp bức giữa người và người:
Trời nắng chang chang,
người trói người!
Một việc đă ảnh hưởng lớn đến
tư tưởng, hành động của Cao Bá Quát là
chuyến đi Tân Gia Ba (Singapour, lúc ấy là một
thuộc địa của nước Anh) trong phái bộ Đào
Tri Phú. Có dịp tiếp xúc với văn minh Tây phương,
khi trở về nước ông lại càng thấy rơ
những đồi tệ, hủ lậu của Triều đ́nh
và sự yếu kém của xă hội ta lúc bấy giờ,
nên ông lại càng bất măn hơn trước. Ông có làm bài
thơ bằng chữ Hán, trích dịch mấy câu nhận
xét về việc học văn chương nước ta
ngày ấy, như sau:
Nhai văn nhá chữ
buồn ta,
Con giun c̣n biết dâu là cao sâu!
Tân-Gia từ vượt con tàu,
Mới hay vũ trụ một
bầu bao la.
Giật ḿnh khi ở xó nhà,
Văn chương chữ
nghĩa khéo là tṛ chơi.
Không đi khắp bốn
phương trời,
Vùi đầu ánh sách, uổng
đời làm trai
(Trúc Khê dịch)
Và Cao Bá Quát cũng đă cực lực phản đối
cái thói đời hay luồn cúi kẻ trên để
cầu vinh, và hống hách khinh miệt và chà đạp lên
nhân phẩm những kẻ dưới ḿnh:
Ngán nhẽ kẻ tham bề khóa
lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng ḿnh đứng
chực cửa hầu môn - Quản bao kẻ mang cái dàm danh,
áo giới lân phủ dưới cơ phu, mỏi gối
qú ṃn sân tướng phủ. - Khéo ứng thù những bác
quan trên - Xin bái ngoảnh cùng anh hàng phố...
Tuy nhiên, năm ba câu thơ đầy khẩu khí
bộc lộ một nỗi niềm uất hận,
bất măn trên đây, đă đủ để chứng
minh tinh thần "cách mệnh" của Cao Bá Quát chưa?
Từ xưa đến nay, các nhà cách mệnh cũng
như các văn nghệ sĩ đều luôn luôn bất măn với
cuộc đời mà họ cho là chưa đúng
với lư tưởng cao đẹp của ḿnh. Họ đ̣i
hỏi nhiều nhu cầu cho thế hệ, cho nhân sinh và
họ uất ức, đau khổ v́ thấy sự đ̣i
hỏi của ḿnh không bao giờ được thỏa
măn cho đầy đủ. Sự bất măn vốn là
nguồn gốc của thi văn, là động cơ
của cách mệnh. Khác nhau là các văn nghệ sĩ
bộc lộ nỗi niềm uất hận của ḿnh qua
thi văn, c̣n các nhà cách mệnh bộc lộ sự bất
măn của ḿnh qua hành động.
Và khác nhau c̣n ở chỗ đối với văn
nghệ sĩ, có khi ư tưởng trong tác phẩm và hành động
trong đời sống trái ngược nhau, nhưng độc
giả thường chỉ thưởng thức tác
phẩm mà không mấy khi chú trọng đến hành động
trong đời sống của tác giả. C̣n đối
với nhà cách mệnh, nhân dân Phương Đông, thường
đ̣i hỏi họ phải có những hành động phù
hợp với tư tường, đạo đức cách mệnh
của ḿnh. Về các văn nghệ sĩ, có thể kể trường
hợp Jean-Jacques Rousseau đă viết quyển Emile để
cổ vơ cho một phương pháp giáo dục trẻ em
trong t́nh thương, nhưng chính ông lại bỏ các con
ḿnh vào nhà trẻ mồ côi. Hay trường hợp nhà
vẽ băng (bandes dessinées) Hergé, cha đẻ của
cậu bé Tintin, theo sự tiết lộ của P. Assouline
trong tạp chí Express (số 2330, ngày 29-02-1996) th́ ông lại
là người ghét trẻ con, và có lần đă xua đuổi
mắng nhiếc những đứa t́m đến chào
hỏi ḿnh, và đă kiện bắt một trường
học gần nhà phải dời đi nơi khác v́ học sinh quá ồn
ào phiền nhiễu ông.
Tiếc rằng Cao Bá Quát cũng có hành động tương
tự. Qua mấy câu thơ trên đây, Cao Bá Quát đă
phản đối những hành động chà đạp
lên nhân phẩm kẻ khác, nhưng trong phạm vi giao
tế, dầu các nhà thơ của nhóm Tùng Thiện Vương
có dở đến đâu, tưởng cũng không đáng
cho ông miệt thị một cách tàn nhẫn, và thô bỉ,
làm xúc phạm đến phẩm giá của họ.
Chưa kể, theo quan điểm của dân ta,
một nhà cách mệnh bao giờ cũng có thái độ
khiêm cung và hoà nhă, thế mà Cao Bá Quát lại tự phụ
một cách vênh váo cho ḿnh là đỉnh cao trí tuệ loài người,
thiên hạ có 4 bồ chữ, phần ḿnh chiếm 2 bồ,
em và bạn ḿnh chiếm 1 bồ, c̣n lại 1 bồ phân phát
cho tất cả mọi người trong nước !? Thử hỏi
nếu Cao Bá Quát có thành công trong cái gọi là "cách mệnh Thang, Vơ"
ấy, th́ liệu dân Việt Nam chúng ta có thể chịu đựng
nổi một loại nhà cầm quyền khinh người
và kiêu căng đến như thế không?
Về vấn đề
Cao Bá Quát đối với "cách mệnh", nếu có
nhiều phán xét khác nhau, chẳng qua cũng chỉ v́ người
ta đă căn cứ vào định nghĩa của
thời xưa hay định nghĩa của thời nay,
vào quan niệm nhân trị của Đông phương hay
quan niệm pháp trị của Tây phương, liên quan đến
bản chất của cuộc cách mệnh
cũng như liên quan đến tác phong đạo đức
của nhà cách mệnh mà thôi. Tác phong kiêu căng, tự hào
vênh váo có xứng hay không với một nhà cách mệnh, hay một
nhà lănh đạo tương lai của đất nước;
cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương có thành công
hay thất bại trong thời điểm lúc bấy
giờ; người đời nay hẳn không căn
cứ vào đấy mà luận anh hùng hay thăng hoa thi tài
của Cao Bá Quát.
Song không ai phủ nhận được chí hướng
và hành động quật cường của ông trước
những cảnh áp bức bất công, cũng không ai
phủ nhận được cái giá trị văn chương
của ông: «lời hùng, ư hùng, cả cách đặt câu xếp chữ
cũng hùng, đọc lên như thấy cái khí phách lẫm liệt bổng
hiện lên mặt giấy.» (2)
Cao Bá Quát vẫn đáng cho chúng ta ngưỡng
phục: ông đă dám vượt ra khỏi cái tháp ngà
của thi văn mà mạnh dạn bước vào trường
hoạt động, cũng như nhà thi hào nước Anh
là Byron đă t́nh nguyện đi chiến đấu cho
nền độc lập của Hi Lạp vào năm 1823.
CHÚ THÍCH
(1) Phạm húy : Là một lỗi
trong các lỗi "phạm trường qui". Những
chữ húy đều là tên ḍng họ nhà vua. Trọng húy là
tên các vua, khinh húy là tên những bà vua, mẹ vua, hay là tổ
tiên lâu đời của vua. Những chữ húy có rất
nhiều và được yết trước cổng trường
thi cho thí sinh biết. Những chữ trọng húy tức là
húy nặng (trọng = nặng) th́ cấm đọc,
cấm viết, coi như là chữ bỏ đi, phải
t́m chữ khác đồng nghĩa mà dùng. C̣n những
chữ khinh húy th́ có thể dùng được v́ thuộc
về húy nhẹ (khinh = nhẹ), nhưng phải "kính
khuyết nhất bút" nghĩa là cung kính mà bỏ sót đi
một nét. Bài thi nào có những chữ trọng húy hay
những chữ khinh húy viết mà không bỏ sót nét th́
bị lỗi gọi là "phạm húy", bị đánh
rớt, có khi c̣n bị tội nữa.
(2) Theo Ngô Tất Tố, Thi văn b́nh chú.
Cao Ba Quat and the Thang Vo Revolution
Translated by Thomas D. Le
To Vietnamese Version
Cao Ba Quat was born in Phu Thi Village, Bac Ninh Province in the north of Vietnam. His father
Cao Ba Chieu, teacher-scholar, issued from a long line of literary and scholarly figures, going back to Cao Ba Hien,
who was Minister of War under the Le dynasty and assumed an additional post of Grand Marshall at the court
of the Trinh Lords.
There is uncertainty surrounding Cao Ba Quat's birthdate, because as a convicted traitor,
he was executed along with three generations of his family, and no documents relating to his life or works were
preserved by his fearful contemporaries. However, existing genealogical evidence and what had been passed on
about his relationship with his contemporaries allow the conjecture of a highly speculative birth year of between
1800 and 1803.
It was known that he was born in the early Nguyen Dynasty, and grew up under the
reigns of Kings Minh Menh (1820-1840), Thieu Tri (1841-1847), Tu Duc (1848-1883), during a period when
the monarchy had achieved great stability, learning in the classics had been well established, and the only way to
fame and career for the educated was through the mandarinate. However, the Court was known for its discriminatory
practices against the scholars of northern extraction.
For example, in the north, which was endowed with a large population, and distinguished
by a long scholarly tradtion and numerous men of letters, the number of schools offering the Thi Huong
competitive examinations (equivalent to a Bachelor's degree) was two.
In contrast the more sparsely populated and impoverished central region enjoyed four schools, and the
developing south had two schools. Test scorings showed another aspect of discrimination. Under the reigns
of Kings Minh Menh, Thieu Tri and Tu Duc, twenty-seven nationwide Thi Hoi examinations (for doctoral
candidates) were held in Hue. Out of the hundreds of scholars who received passing grades, only four came from the north.
Some northern doctoral candidates had their superior performances downgraded for no apparent reasons.
Such an egregious example occurred in the year 1838 under King Minh Menh, when a northern candidate by the name
of Pham Van Nghi, who had the highest scores, was downgraded to allow candidate Nguyen Cuu Truong to
pass with honors because the latter was a native of Thanh Hoa Province, where the Nguyen
Dynasty had its roots.
This systemic issue was the root cause of a great deal of discontent among the northern
scholars, and had become so severe that during an examination session held in 1862 under King Tu Duc
one northern candidate named Hoang Huu Tai took the audacious step of excoriating the problem is his paper.
But King Tu Duc, who graded his paper, instead of being flustered gave him a high mark that made him 'pho bang'
(second rank). The King went further by making another northern candidate of that session a 'hoang giap'
(passing with perfect scores), and writing the following remark in his paper, "To show that I do not discriminate
between regions." However, this isolated action by King Tu Duc failed to mollify the northern scholars, chief
among whom was Cao Ba Quat.
Endowed with a superior intelligence, Cao Ba Quat was able to read the Tam Tu Kinh (The Three
Canons) at the age of five. By the age of fourteen, he could write in all literary forms with skill, and
enjoyed a widespread reputation for his scholarship. During the twelfth year of King Minh Menh's reign (1831),
Cao Ba Quat entered the Thi Huong examinations in Hanoi, and was ranked second among the successful
candidates. Yet when his test papers were reviewed at the Court, he was placed last for violating examination
rules, which set forth the stylistic and formal parameters and guidelines for candidates to follow in their papers.
The following year, ever the maverick he sat for the Thi Hoi examinations at Hue, and flunked although he
put on an admirable performance. And his successive examinations ended up in repeated failings. During the
first year of King Tu Duc's reign in 1841, upon recommendation by the Bac Ninh Province's governor, he was
appointed to a minor post at the Ministry of Rites.
Once he served as semi-final examiner during a Thi Huong session at Hue. He tried
to save a candidate from failing for having violated the rule of names (1) by correcting his paper with lamp soot.
This action later uncovered cost him his post, and sent him demoted in exile to Da Nang. Two
years later, he was attached to a mission led by Dao Tri Phu to Singapore to allow him an opportunity to redeem
himself. On his return, he was rehabilitated, and promoted to Agency Director at the Court, where he served until 1854.
He was wont to boast that 'There are four storehouses of words in the world. I have two, my
brother Ba Dat and my friend Nguyen Van Sieu keep one, and the remaining one is distributed to everyone else.'
He was renowned for his scholarship. His Sino-Vietnamese works were highly praised by King Tu Duc, who
said, 'The literary achievements of Sieu and Quat have no peers even among the Anterior Hans.' His contemporaries
referred to the pair as 'god Sieu and saint Quat'. Admired by the intelligentsia and powers that be at the capital,
he was not above infuriating them with his superciliousness and irreverence. For instance, he once wrote disparaging
verses 'in honor of' Thi Xa Mac Van of the Tung Thien Vuong Poetry Group:
What a disrespectful nose
That couldn't tell a Thi Xa poem from a Nghe An boat!
(In the old days, boats from Nghe An carried fish to market, and were notorious for
their distinctive smell.)
In 1854, Cao Ba Quat was sent as Education Commissioner to Quoc Oai District, adjacent to
Son Tay Province. Here he conspired with the rebel leader Nguyen Kim Thanh in a plot to restore Le Huy Cu
(a Le Dynasty descendant) to the throne, and to overthrow King Tu Duc and the Nguyen Dynasty. The revolt
broke out in the 10th month of that year, under a flag that proclaimed:
If Binh Duong, Bo Ban did not have King Nghieu and King Thuan
Then at Muc Da, Minh Dieu there were King Vo and King Thang.
The implication is that at the capital there is a tyrant in Tu Duc, while among the population
there is an enlightened leader in Le Duy Cu, who will rise like Kings Vo and Thang to rid the country of
tyranny. With that slogan on the standard, Cao Ba Quat proclaimed a 'cach menh' or 'revolution' in the same sense
as the ancient Chinese historian Tu Ma Thien expounded, "The revolutions led by King Vo Vuong and King
Thanh Thang were in accord with the will of Heaven, and in accord with the will of the people."
As far back as the time of the Ha Dynasty (2205-1766 B.C.), the virtuous King Dai Vo, who was
acknowledged by vassal lords as their sovereign, established his capital in Binh Duong. There his throne
passed through seventeen kings until King Kiet, who turned out to be a despotic, licentious, and brutal monarch.
He doted on his concubine Muoi Hy, for whom he built sumptuous palaces, and indulged her lavish
lifestyle, in the process impoverishing the people with crushing taxation. He meted out inhuman punishments,
and caused dire misery among the people, thereby stoking the fire of their anger. Before the assembled vassal kings,
Thang raised the flag of revolution with the proclamation, "The Ha Dynasty has committed crimes. Heaven
entrusted me with the mission of striking it down. In fear of Heaven's wrath, I must obey." King Thang defeated King
Kiet at Minh Dieu and drove him out to the land of Nam Sao. Upon his success he was honored by the people
with the title of Thanh. Thus King Thanh Thang founded the Thang Dynasty (1766-1122 B.C.) at Bo Ban, and
the crown passed through twenty-seven reigns to King Tru. Tru was an astute and cunning ruler. But he
was so enamored of his courtesan Dac Ky that he ruined the treasury in lavish living and indulgence. He
governed with an iron hand, taxed the people heavily, punished brutally, and exterminated his loyal followers.
The Earl of Tay Ba named Phat led 800 vassal rulers and their troops into a decisive battle that defeated King Tru at Muc Da.
King Tru withdrew into his palace, where he immolated himself. Tay Ba Phat acceded to the throne, took the
title of King Vo Vuong, and founded the Chu Dynasty.
The Cao Ba Quat uprising (known by his contemporaries
as the Locust Rebellion because it coincided with an outbreak of locust attack on crops) was quickly stamped
out. By contemporaneous accounts of the elderlies, Cao Ba Quat was captured and later executed at Phu Thi District.
But according to the Dai Nam Liet Truyen (A Story of Dai Nam, volume 4b, folio 14, Section 'Traitors'), Cao Ba
Quat died in battle. The King ordered his head displayed throughout the north before grinding
it and scattering the pieces in the river.
The issues raised in this paper are:
1. What does the term 'cach menh' as used by Chinese historians for
thousands of years mean? The Chinese term 'cach' means to abolish, to annul, to remove, as in 'cach chuc'
(to remove from office); and 'menh' is an order, a command, a mandate, as in 'menh troi' (heavenly mandate),
a mandate from heaven, an order to carry out. In Confucianist view, the king is the son of Heaven, charged
by Heaven with the mandate to "instruct the people, to do good for the people, to eradicate evils, not to be
a burden on the people, to look after the welfare of the people without boasting about the good deeds." If
the ruler failed in his mandate, became a tyrannical despot, and caused misery, hunger, and poverty, he
incurred the hatred and enmity of the people. Confucianist teachings assert that if the people wills it, then
Heaven goes along, and repeals its mandate. This is the meaning of 'cach menh', an annulment of the
heavenly mandate. At that time, if there rises among the populace a person with sufficient talent and
virtue who commands the loyalty of the people, he acts in accord with Heaven's will and with the people's
will against the failed ruler. He has led a revolution. Thus, according to Chinese historical precedents and
usage, a revolution is a replacement of an evil ruler with a virtuous ruler.
2. Today it is common to translate the term 'cach menh' into
the term 'revolution'. But are these terms synonymous? In the western sense of the word, revolution
signifies a turning around, a change in the political, social, and economic structure, not just a change of
kings or rulers. The change implied in a revolution must be drastic, fundamental and radical. If the change
affects only the ruling parties, and not the policies or the structure, it can only be called a coup d'etat or
a reform.
3. Given this, to what extent may the term 'cach menh' be applied in
Cao Ba Quat's case?
(a) By the western definition of the word 'revolution', Cao Ba Quat's
uprising does not qualify as a revolution, because of his ostensible purpose of replacing what he considers to
be an evil ruler with someone he considers to be a more virtuous one. His action does not entail a drastic
change in the political, social, and economic structure of the country.
(b) However, another school of thought maintained that Cao Ba
Quat was, both in thought and in action, a true revolutionary in the ancient Confucian.sense of the word
'cach menh'. Evidence of this existed in an impromptu couplet he spoke that embodied his spirit:
I as a gentleman will seize the opportunity to act,
That king and subjects be as they were during the Nghieu Thuan era.
Elsewhere, in a poem entitled Meeting a hungry man on the road, Cao Ba Quat expressed
compassion for a person who had fallen on hard times:
Sir, this is my situation.
Out of poverty I became a medicine man.
On day two I pawned my briefcase.
On day three I went without food.
He was outraged by man's brutality:
Man tied man under the torrid sun.
A great change in his thoughts and actions occurred after his return from the Doan
Phu Tu mission to Singapore (then a British colony). Contact with western civilization had opened
his eyes to the distress, backwardness, and weakness of our society, and kindled in him a greater discontent
with the situation than ever before. He put his frustrations in Sino-Vietnamese verse as follows:
We just chewed on letters and words,
And being earthworms knew nothing about caterpillars.
Since that trip by boat to Singapore
It was clear the world was truly immense.
What a wakeup call from our confined corner.
All that literature and classics were mere games.
Without travels abroad
All that devotion to letters was just a waste of manly ambition.
Cao Ba Quat also inveighed against society's sycophantic fawning for wordly gains, and
contempt for human dignity, especially of the weak and vulnerable.
I am sick of those greedy for fame and wealth, who with their dragonfly headdress
[a sign of status] patiently cool their heels in front of the court of the powerful. How many are those who
aspire to vain glory, covering themselves in fine clothing to kneel till the courtyard wore out for a chance
to flatter the high officials, all the while despising the common man?
One must ask whether utterance of words of indignant anger and frustration was enough
to make Cao Ba Quat a revolutionary.
Throughout history revolutionaries as well as writers have often been discontented with
society for failing to live up to their ideals of perfection. They demanded more for their generations and for
their lives, and suffered when their demands were not met to their satisfaction. Discontent has been
the prime reason for revolution. It impels writers to write and revolutionaries to spring to action.
Another remarkable fact was the gulf that sometimes separates a writer's thoughts and his
actions. Readers tend to familiarize themselves with an author's work, yet rarely pay attention to the author's
behavior in life. People in the East, however, generally expect a revolutionary to live and practice their own ideals.
An example of this schism may be cited in the case of Jean-Jacques Rousseau, the author of Emile in
which he expounded his philosophy of education based on love, who actually abandoned his own children to
orphanages. Again, take the cartoonist Herge, creator of the lovely boy Tintin. According to an article
by P. Assouline in the Express issue No. 2330 of February 29, 1996, Herge hated children. He had once
chased them and verbally abused them when they came to greet him, and even sued a school to get it to
move on grounds that the children were a nuisance to him.
It is regrettable that Cao Ba Quat behaved similarly. Even though he deplored how people
destroyed one another's dignity, he himself was far from being guiltless. He had utterly humiliated, deservedly or not, the poets
in the Tung Thien Vuong Group in the most merciless and caustic way possible.
And that is not to mention the fact that in Vietnamese society, revolutionary leaders are
expected to conduct themselves with humility and courtesy. Yet Cao Ba Quat was arrogant, boastful, and
megalomaniac. One might wonder what kind of a leader he would make if he had succeeded in his "Thang
Vo revolution," and whether the Vietnamese people would countenance such a leader.
The controversy surrounding the issue of whether Cao Ba Quat was a true
revolutionary was due to the different interpretations of the concept of revolution, the Eastern notion of the
rule of man versus the Western notion of the rule of law, the nature of revolution as opposed to the behavior
and virtue of the revolutionary leader. The question remains whether Cao Ba Quat's own sense of superiority
and his delusion of grandeur were worthy of a leader. We should not judge his literary achievements or his
historical status solely on the basis of the success or failure of his endeavor at My Luong.
In the final analysis, no one can deny his indomitable spirit before the gross injustices
of his time, or the literary merits of his works. As one critic put it, "Heroic thoughts clothed in heroic words;
even his style and diction all testified to the presence of a lofty and uplifting spirit." (2)
Cao Ba Quat deserved our respect for stepping out of his ivory tower and getting engaged
in the cause in which he believed, much in the same way as the English poet Lord Byron, who enlisted for
the cause of Greek independence in 1823.
Notes:
(1) Breach of the rule of names is one of the infractions against examination regulations.
These names are personal names that belong to members of the royal family. A list of these names is posted
at the gate to the examination center for the benefit of candidates, who are to avoid using them in their papers.
A severe violation results from using the names of kings. A light violation occurs when the candidate uses
the names of the king's wife, mother and ancestors. It is forbidden to read, write, or use in any way the names
in the "severe" list. In other words, these words are off-limit. Candidates must find synonyms or equivalents.
Words in the "benign" list may be used if and only if a stroke is omitted out of deference for the person
whose name is being written. Candidates whose exam paper contained names from the first list, or names
from the second without the omission of a stroke would receive a failing grade, and sometimes punishment.
(2) From Ngo Tat To, Thi Van Binh Chu.
To Vietnamese Version
See: Cao Ba Quat, A Classical Poet by Lư Lăng Nhân
Home
| Literature
| Poetry
| Science
| Great Places
| Explore
| Fiction and More
| Comments